Skip to content

Chữ Thứ Mười Lăm SAMECH Giúp đỡ Số tiêu biểu: 60

ס

Chữ nầy có nghĩa là giúp đỡ hay nâng đỡ, hỗ trợ

Chữ SAMECH có nghĩa là người giúp đỡ

Chữ Thứ Mười Bốn NUN Cá Số tiêu biểu: 30

נ ן

Chữ thứ mười bốn của mẫu tự Hy bá lai là NUN, chữ nầy nghĩa là cá. Phát âm như chữ N.

 

Chữ Thứ Mười Ba MEM nước Số tiêu biểu: 40

מ ם

Chữ thứ mười ba trong mẫu tự Hy bá lai là MEM, nghĩa là nước. Phát âm như chữ M. Hình dáng chữ nầy tựa như sóng biển. Kinh Thánh chép chữ nước 631 lần. Lần đầu trong Sáng thế ký 1:2; lần cuối trong Khải thị 22:17. Nước là một trong ngũ hành của công việc sáng tạo, là nhu yếu phẩm cho muôn vật mọi loài.

Chữ Thứ Mười Hai LAMED (Cái đót bò) Số tiêu biểu: 30

ל

Cái đót bò xuất xứ từ Sy ri, các nông gia Sy ri khi cày ruộng thường dùng một cành cây thẳng cứng bằng gỗ sồi, dài chừng một thước rưỡi, một đầu bằng và một đầu chuốc nhọn. Ðường kính của đầu bằng độ ba phân tây dùng để thúc bò, đầu nhọn bịt sắt dùng để cạy đất dính vào lưỡi cày. Ðó là công dụng của cái đót bò.

Cái đót bò trong tay Sam ga.

Cái đót bò! Một dụng cụ đơn sơ tầm thường của các nông gia. Nó không phải là một khí giới chiến đấu; nó có hai công dụng: thúc bò đi cho mau hơn và cạy đất dính nơi lưỡi cày. Các nông gia thời xưa cày ruộng bằng bò không thể không cầm đót! Nó tầm thường nhưng ích lợi vô cùng. Tuy cái đót bò không phải bằng kim loại như gươm, giáo hay mã tấu, dao găm, nó chỉ là một đoạn gỗ nhỏ có thể bẻ gãy dễ dàng. Bình thường Sam ga dùng nó khi cày ruộng, nhưng thình lình kẻ thù tràn tới như nước vỡ bờ, trong trường hợp cấp bách đó ngoài cái đót bò ra Sam-ga không có một khí giới nào khác. Ông đã dùng nó giết 600 người Phi li tin trong một ngày, đem lại sự đắc thắng vẻ vang, giải cứu dân Y sơ ra ên khỏi tay quân thù. Thật là một chiến công hi hữu!

Sam ga không phải là một chiến sĩ nổi danh, nhưng ông đã kịp thời đối phó bằng vật sẵn có nơi tay nên đã thành công mỹ mãn

Chữ Thứ Mười Một KAF Cánh Số tiêu biểu: 20

כ ך

Chữ nầy có nghĩa là CÁNH (như cánh chim)

Loài chim có bộ lông cánh đẹp nhất là con công. Nhìn một con công xòe cánh và đuôi ra chúng ta sẽ thấy màu sắc của cái mống. Tại Nam Mỹ có một giống chim hết sức nhỏ, hình vóc chỉ lớn bằng con ong, mới xem qua người ta cứ ngỡ là con ong, nhưng khi bắt được nó mới biết đó là một giống chim tí hon kỳ lạ, giống chim này có nhiều màu sắc rực rỡ khác thường.

Các loài chim định hướng rất chính xác, dù sương mù dày đặc hay bão tố dữ dội, chúng vẫn lướt gió tung mây bay về tổ ấm cách an toàn. Khi mới nở ra khỏi vỏ trứng, cặp cánh chim con nhỏ bé trơ trụi, bao phủ bằng một lớp lông non mềm mại dễ thương. Nhưng cặp cánh ấy vô dụng vì không đủ năng lực để nâng chim lên khỏi tổ. Cánh ấy phải được phát triển, tức là phải mọc thêm những chiếc lông cánh dài tùy theo loại chim. Rồi cặp cánh ấy phải được huấn luyện cách thuần thục, bấy giờ mới có thể bay lên khoảng không cách nhẹ nhàng mau lẹ.

Trong sách Phục truyền luật lệ ký 32:11 cho ta thấy cách chim phụng hoàng tập bay cho chim con khi đã đủ lông cánh. Trước hết chim mẹ vất bỏ những vật mềm đã lót ổ khi đẻ trứng. Chim con phải nằm trên những cành cây khô cứng khó chịu, sau đó chim mẹ đùa chim con ra ngoài tổ dựa bên gành đá chơ vơ, đoạn hất mạnh chim con ra ngoài từ trên cao độ hai ngàn bộ. Chim con hốt hoảng liền tức khắc sử dụng cặp cánh. Nhưng vì cặp cánh ấy quá yếu ớt không đủ sức nâng lấy thân chim, nó chỉ bay phấp phới. Vài giây đồng hồ sau chim con đuối sức và từ từ rơi xuống. Chim mẹ lúc ấy bay loanh quanh theo con, khi thấy chim con đã rơi xuống giữa khoảng không, chim mẹ liền bay thấp xuống phía dưới xớt lấy chim con đem về tổ. Bài học ấy được lặp lại nhiều lần cho đến khi chim con thật quen thuộc, đủ sức bay một mình không cần sự giúp đỡ của chim mẹ nữa. Khi chim ưng con đã chịu huấn luyện sử dụng cặp cánh thuần thục rồi, lúc bấy giờ nó cũng bay cao như mẹ nó. Nó cũng tìm các ngọn núi cao để làm tổ và đường bay của nó cũng xa tít tận mây xanh. Kinh Thánh ghi nhận rằng đường chim ưng bay trên trời thật diệu kỳ, loài người không biết được (Châm ngôn 30:19a).

 

Chữ Thứ Mười YOD Bàn tay Số tiêu biểu: 10

י

Từ ngữ “bàn tay” là một trong 36 chữ được Kinh Thánh chép nhiều nhất. Nhưng với phạm vi của bài nầy không thể liệt kê ra hết các từ ngữ ấy. Theo cổ ngữ Ê thi ô pi chữ bàn tay là “Yaman” còn chữ La tinh là manus và do đó có chữ manufacture Anh ngữ tức là chế tạo.

Chữ YOD là một chữ có hình dáng nhỏ nhất trong 22 mẫu tự Hy bá lai, trông tựa như một dấu phẩy. Chữ nầy thật nhỏ nhưng lại rất quan trọng. Nghĩa của nó là bàn tay mà cũng là số 10. Theo tiếng Hy bá lai thì mỗi chữ cái của mẫu tự tượng trưng cho một con số; như chữ ALEPH là chữ đầu tiên thì là số 1, BETH là số 2 và chữ QUF (Q) là số 100. Chữ RESH (R) là số 200, rồi đến các chữ khác con số càng tăng đến chữ cuối là 400, rồi từ 22 chữ tức là 22 số đó mà làm thành số ngàn và thêm mãi …

Bàn tay là một chi thể rất hệ trọng của thân; nó tỏ ra năng lực của con người. Trí óc điều khiển, bàn tay hành động. Mọi công tác hoặc nhỏ bé hay lớn lao đều do bàn tay của con người thực hiện cả. Không có bàn tay, con người mất đi lẽ sống trên đời. Dù khoa học có tiến bộ, có thể tạo ra những “bàn tay giả” để tháp vào cho những người xấu số chẳng may mất một hay cả hai tay , nhưng bàn tay giả chất lượng vẫn không linh hoạt và khéo léo bằng bàn tay thật

Chữ Thứ Chín TET Con Rắn Số tiêu biểu: 9

ט

Chữ thứ chín của mẫu tự Hy bá lai là TET phát âm như chữ T. Chữ này có nghĩa là con rắn trông giống như con rắn ngẩng đầu lên. Trong tiếng Hy bá lai có 11 từ ngữ chỉ về rắn, tiếng Ả rập có 4 và tiếng Hi lạp có 5.

 

Chữ Thứ Tám CHETH Hàng rào Số tiêu biểu: 8

ח

Chữ thứ tám của mẫu tự Hy bá lai là CHETH phát âm như chữ KH ( tiếng việt ) và CH ( tiếng Anh ) . Chữ nầy có nghĩa là “hàng rào” hay là “vách” hoặc “thành”.

Trên một con đường nguy hiểm, dốc cao, hố thẳm người ta thường làm những rào cản dọc theo mé đường để tài xế thấy chỗ nguy mà hãm bớt tốc lực và lái xe cẩn thận hơn.

 

Chữ Thứ Bảy ZAYIN Khí giới Số tiêu biểu: 7

ז

Chữ thứ bảy trong mẫu tự Hy bá lai là ZAYIN (đọc như chữ Z) có nghĩa là “khí giới”. Danh từ chỉ về “khí giới” trong tiếng Hy bá lai có bảy từ ngữ, được nêu ra trong 23 câu Kinh Thánh. Nó bao gồm các loại như: gươm, giáo, áo giáp, thuẫn, giây nịt lưng, mũ, giày, cung, tên, búa, rìu …

Trước cơn Ðại Hồng Thủy có một người sanh từ dòng dõi Ca in tên là Tu banh Ca in, là “người rèn đủ thứ khí giới bằng đồng và bằng sắt” (Sáng 4:22). Chúng ta không lấy làm lạ vì sao Tu banh Ca in biết rèn đủ thứ khí giới mà không cần thụ huấn nơi một trường huấn nghệ nào cả, vì tổ tiên của ông ta là Ca in, con đầu lòng của A-đam và Ê-va đã biết dùng khí giới để giết người trước tiên, nên các thứ khí giới bằng đồng và bằng sắt được sản xuất từ dòng dõi ấy.

Từ ấy đến nay các loại khí giới được thông dụng hơn. Công dụng của khí giới là “tự vệ” và “tiêu diệt kẻ thù”. Người Ðông phương thuở xưa khi đi đường hay mang rìu trên vai (giống như dân tộc thiểu số hay mang rựa hoặc chà gạt) để tự vệ như đề phòng giặc cướp hay chống cự với thú dữ.

Người đàn ông Tô cách lan được phép võ trang một “đoản kiếm” (gươm ngắn) để tự vệ. Mỗi cá nhân là một cảnh sát viên có quyền xử dụng loại đoản kiếm ấy, nhưng vì nhiều người lạm dụng thứ khí giới ấy để giết người cách dễ dàng nên đến năm 1828 họ bỏ lối trang bị vũ khí ấy, và thành lập một đội cảnh sát riêng biệt, huấn luyện kỹ càng và võ trang bằng súng ống như hiện nay. Một quân nhân, một cảnh sát viên có bổn phận bảo vệ an ninh cho quốc gia, chống ngoại xâm, trừng phạt những người phạm pháp vì vậy họ cần có khí giới để thi hành pháp luật.

Chữ Thứ Sáu VAV Cây đinh Số tiêu biểu: 6

ו

Chữ thứ sáu là VAV (tiêu biểu cho chữ W và V). Chữ nầy có nghĩa là “cây đinh” hay là “cái móc”. Một nghĩa khác nữa là “và” tức là một liên tự trong văn phạm. Cây đinh rất thông dụng trên toàn thế giới, mọi dân mọi nước đều biết dùng đinh. Vào thế kỷ thứ XVIII dân chúng ở thành phố Cradley Heath nước Anh đều là thợ làm đinh, họ chưa có máy móc tối tân như hiện nay. Trong nghề làm đinh họ chỉ dùng khuôn là những chiếc “thùng cát” nhưng đúc rất chậm. Song họ rất ưa thích nghề nầy, nên trải qua nhiều đời họ cứ tiếp tục làm đinh. Cho đến ngay kỹ nghệ làm đinh với phương pháp tối tân hiện đại vẫn thịnh hành tại đây.

Cây đinh bằng gỗ, bằng sắt hoặc bằng bạc hay bằng vàng cũng đều ích lợi cả. Công dụng của cây đinh là liên kết hai vật lại với nhau. Từ bàn, ghế, tủ, nhà cửa đến xe cộ, tàu bè … đều cần đến đinh. Ðinh rất quan trọng, đôi khi vì thiếu đinh mà một công việc to tát phải bị đình chỉ.